Những lĩnh vực hấp dẫn nhất của Việt Nam đối với FDI và các đối tác đầu tư hàng đầu
Những lĩnh vực hấp dẫn nhất của Việt Nam đối với FDI và các đối tác đầu tư hàng đầu
Việt Nam đã trải qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế nhanh chóng trong suốt những thập niên vừa rồi. Nhờ giá nhân công rẻ, các chính sách ưu đãi về thuế và đầu tư, cùng với vị trí địa lý chiến lược, Việt Nam đã trở thành một trong những điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài. Môi trường kinh doanh và kinh tế - xã hội ổn định cùng với sự hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ thông qua các hiệp định thương mại tự do (FTA) cũng chính là những yếu tố then chốt góp phần thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam.
Tính đến tháng 12 năm 2020, có trên 33.000 dự án có vốn đầu tư nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 386 tỷ USD.
CÁC NGÀNH CHỦ YẾU NHẬN ĐƯỢC VỒN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP TỪ NƯỚC NGOÀI (FDI)
Tính đến tháng 12 năm 2020, lĩnh vực sản xuất và chế biến chiếm 48% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước, đạt 228,5 tỷ USD. Theo sau là lĩnh vực bất động sản với 60,3 tỷ USD, sản xuất và phân phối điện chiếm 28,7 tỷ USD, và dịch vụ ăn uống và lưu trú chiếm 12,5 tỷ USD. Các lĩnh vực FDI đáng chú ý khác bao gồm xây dựng, bán buôn, vận tải, khai khoáng, giáo dục và công nghệ thông tin.
Thu hút FDI vào Việt Nam (Tích lũy các dự án hiệu quả tính đến tháng 12 năm 2020) | |||
Số hiệu. | Ngành công nghiệp | Số lượng dự án | Tổng vốn đầu tư đăng ký (Triệuđô la Mỹ) |
1 | Sản xuất & chế biến | 15.126 | 228.548 |
2 | Bất động sản | 938 | 60.320 |
3 | Sản xuất và phân phối nguồn cung cấp điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí | 151 | 28.641 |
4 | Dịch vụ lưu trú & ăn uống | 889 | 12.509 |
5 | Sự thi công | 1.751 | 10.679 |
6 | Bán buôn, bán lẻ và sửa chữa ô tô, xe máy | 5.182 | 8.505 |
7 | Vận chuyển và bảo quản | 875 | 5.418 |
8 | Khai thác mỏ và khai thác đá | 108 | 4.898 |
9 | Giáo dục và đào tạo | 583 | 4.412 |
10 | Thông tin và giao tiếp | 2.326 | 3.975 |
Nguồn: GSO
Sản xuất và Chế biến
Các doanh nghiệp đa quốc gia (MNE) hỗ trợ trong lĩnh vực sản xuất được hỗ trợ đang cố gắng né tránh những căng thẳng trong thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc. Ngày càng có nhiều công ty chuyển hoạt động sản xuất sang Việt Nam hoặc chấp nhận mô hình “Trung Quốc + 1”. Các ngành dịch chuyển đầu tiên là dệt may, điện tử, ô tô, cơ khí chế tạo, thực phẩm và đồ uống, và chế biến thức ăn chăn nuôi.
Ngành dệt may là lĩnh vực xuất khẩu chính của Việt Nam. Đặc biệt, Việt Nam là nhà cung cấp hàng dệt may lớn thứ hai trong Năm 2020, chỉ sau Trung Quốc. Trong những năm gần đây, các tập đoàn bán lẻ đa quốc gia như Nike và Adidas đã mở rộng cơ sở sản xuất của họ sang Việt Nam vì giá thành nhân công rẻ hơn. Bắt đầu từ năm 2009, Nike bắt đầu sản xuất nhiều dòng sản phẩm của mình hơn tại Việt Nam so với Trung Quốc, và ngay sau đó vào năm 2012 Adidas cũng đã áp dụng theo.
Sự bùng nổ công nghệ gần đây của Việt Nam đã mở đường cho đất nước này bắt đầu sản xuất các mặt hàng công nghệ cao, phức tạp hơn. Điều này có thể được chứng kiến thông qua xu hướng gần đây khi các nhà sản xuất công nghệ cao chủ yếu chuyển dịch sang Việt Nam. Đáng chú ý trong số đó là Goertek của Trung Quốc và công ty lắp ráp AirPods, tai nghe không dây của Apple; Google và quá trình sản xuất điện thoại dòng Pixel của Microsoft cũng đã áp dụng theo và đang có kế hoạch dịch chuyển việc sản xuất máy tính bảng dòng Surface sang Việt Nam kể từ năm 2020. Mới đây nhất, tập đoàn điện tử LG Display của Hàn Quốc đã đầu tư thêm 1,4 tỷ USD vào cơ sở sản xuất tại Hải Phòng - Số vốn bổ sung này đã nâng tổng vốn đầu tư của LG Display tại Việt Nam lên 4,65 tỷ USD. Trong bối cảnh căng thẳng toàn cầu bắt nguồn từ hậu quả không lường trước được trong cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung cùng mức thuế quan nặng nề áp đătj lên các sản phẩm công nghệ cao, Việt Nam đã trở thành một lựa chọn thay thế nổi bật đối với FDI sản xuất dựa trên công nghệ.
Tuy phải hứng chịu những tổn thất từ COVID-19 nhưng đại dịch vẫn không thể làm suy giảm vai trò toàn cầu của Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu hiện đang trông cậy vào Việt Nam như một trung tâm sản xuất chính; sự gián đoạn trong ngắn hạn sẽ khiến các doanh nghiệp phải gánh chịu hậu quả thay vì tái chuyển dịch do các chi phí bổ sung.
Bất động sản
Kể từ những năm 2000, thị trường bất động sản Việt Nam đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài nhờ vào tính ổn định về chính trị và sự tăng trưởng bền vững đối với nền kinh tế vĩ mô của quốc gia.
Các nhà phát triển lớn của Singapore như Keppel Land, CapitaLand, Sembcorp và Mapletree là một trong những động lực chính thúc đẩy thị trường bất động sản Việt Nam phát triển mạnh vào đầu những năm 1990.
Làn sóng đầu tư đáng kể tiếp theo đến từ Hàn Quốc với các nhà phát triển đáng chú ý bao gồm GS E&C và Lotte tiếp tục mở rộng sự hiện diện của họ cho đến ngày nay. Ngoài ra, đã có một số nhà phát triển dự án Malaysia gặt hái được thắng lợi như Gamuda và SP Setia, cũng như các dự án bất động sản thành công khác chẳng hạn như Park City tại Hà Nội.
Hơn nữa, Việt Nam đang nhận được sự quan tâm ngày càng tăng từ Nhật Bản, với các nhà đầu tư Nhật Bản tham gia vào nhiều dự án ở mọi quy mô, từ những dự án nhỏ hơn đến những dự án khổng lồ như dự án thành phố thông minh của Sumitomo liên doanh với BRG.
Năm 2020 và quý I / 2021, vốn FDI rót vào bất động sản Việt Nam đối mặt với rất nhiều khó khăn. Hai lý do chủ yếu là hiệu ứng gợn sóng của COVID-19 và các vấn đề pháp lý đặt ra đối với các dự án phát triển. Tuy nhiên, mối quan tâm dành cho bất động sản Việt Nam từ nước ngoài ngày càng gia tăng.
Trong giai đoạn 2021-2022, các loại tài sản nhà ở, văn phòng và công nghiệp sẽ thu hút sự chú ý của nhà đầu tư nhiều nhất. Việt Nam là thị trường mục tiêu quan trọng của các MNE, với các nhà cung cấp Công nghệ, Dịch vụ Tài chính, Bảo hiểm Nhân thọ, tất cả đều đang được hưởng lợi. Tất cả các tổ chức sản xuất này đòi hỏi không gian văn phòng làm cơ sở hỗ trợ nhu cầu của mọi người. Với nhiều dự án đang trong quá trình xây dựng, nguồn cung mới có khả năng khiến phân khúc này trở nên cạnh tranh hơn rất nhiều.
Sản xuất và phân phối điện
Trong thập kỷ qua, ngành công nghiệp năng lượng của Việt Nam có tốc độ phát triển nhanh chóng. Nhu cầu điện quốc gia dự kiến sẽ tăng 8,5% / năm tính đến năm 2025 và 7% đến hết năm 2030, khiến Việt Nam trở thành một thị trường đầy hấp dẫn đối với các nhà đầu tư năng lượng nước ngoài.
Tại Hội nghị thượng đỉnh năng lượng 2020 được tổ chức tại Hà Nội, một số thỏa thuận đầu tư vào các dự án năng lượng, bao gồm MOU, đã được ký kết giữa các Đối tác Cơ sở hạ tầng Copenhagen, Asiapetro và Novasia Energy với Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận nhằm phát triển dự án điện gió 3,5GW ngoài khơi La Gan với kinh phí 10 tỷ USD.
Năm 2021 cũng chứng kiến các dự án năng lượng quan trọng ở miền Nam Việt Nam, bao gồm Dự án Nhà máy điện LNG trị giá 3,1 tỷ USD tại Long An của nhà đầu tư Singapore và Nhà máy nhiệt điện trị giá 1,31 tỷ USD tại Cần Thơ của nhà đầu tư Nhật Bản.
Trong thập kỷ tới, năng lượng tái tạo và năng lượng sạch sẽ đem đến những cơ hội lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong bối cảnh nhu cầu phát triển điện năng rất lớn của đất nước cùng với chiến lược quốc gia về phát triển năng lượng bền vững đi kèm với việc ưu tiên phát triển năng lượng tái tạo.
ĐỐI TÁC ĐẦU TƯ HÀNG ĐẦU
Kết quả tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định của Việt Nam trong suốt thập kỷ qua là sức hút đầy lôi cuốn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đã có hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Thu hút FDI vào Việt Nam (Tích lũy các dự án hiệu quả tính đến tháng 12 năm 2020) | |||
Số hiệu. | Nhà đầu tư | Số lượng dự án | Tổng vốn đầu tư đăng ký (Triệu USD) |
1 | Hàn Quốc | 8.950 | 70.442 |
2 | Nhật Bản | 4.641 | 60.577 |
3 | Singapore | 2.630 | 56.855 |
4 | Đài loan | 2.794 | 35.742 |
5 | Hồng Kông | 1.940 | 25.987 |
6 | Quần đảo Virgin thuộc Anh | 865 | 22.154 |
7 | Trung Quốc | 3.134 | 18.633 |
8 | Malaysia | 644 | 12.930 |
9 | Thái Lan | 604 | 12.653 |
10 | Hà Lan | 370 | 10.286 |
Nguồn: GSO
Các nước châu Á đã vươn lên chiếm phần lớn vốn FDI của Việt Nam. Hàn Quốc đã đầu tư 70,4 tỷ USD vào nước này, trở thành nhà đầu tư lớn nhất. Đứng thứ hai là Nhật Bản (vốn đầu tư 60,6 tỷ USD), tiếp theo là Singapore (vốn đầu tư 56,9 tỷ USD). Ngoài ra, nhiều công ty từ Đài Loan và Hồng Kông cũng đang hoạt động trong nước.
Trong tương lai, các hiệp định FTA với các quốc gia bên ngoài châu Á có thể thu hút một loạt những nhà đầu tư mới. Ví dụ, nghiên cứu cho thấy 72% thành viên EuroCham cho rằng FTA Việt Nam-EU có thể dẫn đến các doanh nghiệp châu Âu gia tăng đầu tư vào Việt Nam.
[CTA với nội dung: Để biết thêm thông tin về cách đầu tư vào Việt Nam, hãy liên hệ với chúng tôi tại [thông tin liên hệ]]
Dẫn Đầu Xu Thế Với Những Thông Tin Bất Động Sản Công Nghiệp Mới Nhất